Mac 2 Flashcards
- Sản xuất hàng hóa
- Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường
- Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặc căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
- Điều kiện ra đời và tồn tại sản xuất hàng hóa:
- Phân công lao động xã hội: là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề khác nhau, nó tạo ra sự chuyên môn hóa lao động dẫn đến sự chuyên môn hóa sản xuất. Do sự tác động của phân công lao động xã hội mà mỗi người chỉ có thể sản xuất ra một hoặc một vào loại sản phẩm nhất định mà trong cuộc sống thì lại cần đến nhiều loại sản phẩm hơn nên để thỏa mãn được nhu cầu đó đòi hỏi sự liên hệ phụ thuộc vào nhau và trao đổi sản phẩm cho nhau.
- Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất: sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà đầu tiên là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng thông qua việc trao đổi - mua bán hàng hóa.
- Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi đồng thời hội tụ đủ hai điều kiện và nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
- Đặc trưng sản xuất hàng hóa
- Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán, không phải sản xuất để tiêu dùng
- Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất tư nhân, vừa mang tính xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm móng của khủng hoảng trong kinh tế hàng hóa.
- Thứ ba, mục đích sản xuất hàng hóa là tạo ra giá trị thặng dư chứ không phải là một giá trị nào khác.
- Ưu thế sản xuất hàng hóa
- Thứ nhất, sự phát triển của sản xuất hàng hóa làm cho sự phân công lao động ngày càng sâu sắc, khả năng chuyên môn hóa, hợp tác hóa được nâng cao, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ; làm xóa bỏ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất và lao động.
- Thứ hai, tính tách biệt về kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải năng động trong sản xuất - kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, ra sức cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy trình,…, tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Thứ ba, sản xuất hàng hóa quy mô lớn là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội hiện đại, phù hợp với xu thế của thời đại.
- Thứ tư, sản xuất hàng hóa thúc đẩy gia lưu kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
- Hàng hóa, thuộc tính của hàng hóa và mối liên hệ giữa các thuộc tính (Khái niệm)
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
- Hàng hóa, thuộc tính của hàng hóa và mối liên hệ giữa các thuộc tính (Thuộc tính)
- Giá trị sử dụng: Là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ một hàng hóa nào cũng có một hoặc một số công dụng nhất định, chính điều này làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học, kỹ thuật và lực lượng sản xuất (ngày xưa than đá chỉ được dùng để nấu, sưởi ấm; khi nồi súpde ra đời, than đá được dùng làm chất đốt; về sau nó cũn được dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp hoá chất …). Giá trị sử dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định, nó chỉ được thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng. Một vật trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để trao đổi.
- Giá trị: Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Ví dụ, 1m vải có giá trị trao đổi bằng 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau về chất, nhưng chúng có thể trao đổi với nhau theo tỷ lệ nào đó là do giữa chúng có một cơ sở chung là cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà các hàng hoá có thể trao đổi được với nhau. Vì vậy, khi người ta trao đổi hàng hoá cho nhau về thực chất là trao đổi lao động của mình ẩn dấu trong những hàng hoá ấy. Có thể nói, lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá là cơ sở chung cho việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá. Như vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
- Hàng hóa, thuộc tính của hàng hóa và mối liên hệ giữa các thuộc tính (Mlh)
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập: người sản xuất thì quan tâm đến giá trị hàng hóa mình làm ra, người tiêu dùng thì chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng giá trị sử dụng đó thì người mua phải trả cho người bán một giá trị tương ứng. Được hiểu là quá trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực hiện trước, giá trị sử dụng thực hiện sau.
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa (lđ cụ thể)
- Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế; cũng phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào v.v; cũng lao động của người thợ may thỡ tạo ra quần áo để mặc, lao động của người thợ mộc thỡ tạo ra ghế để ngồi v.v. Điều đó có nghĩa là lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Trong xã hội có nhiều loại hàng hoá với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Lao động cụ thể là điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế-xã hội nào. Những hình thức của lao động cụ thể phụ thuộc vào sự phát triển của kỹ thuật, của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Lao động cụ thể khác nhau làm cho các hàng hoá có sự khác nhau về giá trị sử dụng. Nhưng giữa các hàng hoá đó có điểm chung giống nhau là giá trị của chúng đều do lao động trừu tượng tạo nên, nhờ đó chúng trao đổi được với nhau. ❖
- Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa (lđ trừu tượng)
Là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là tiêu hao sức lao động của người sản xuất hàng hóa nói chung. Nếu lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng thì lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá. Có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hoá.
- Nội dung của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
- Yêu cầu của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa
Việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được; cũng trong trao đổi, hay lưu thông, phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, tức là giá cả phải bằng giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống tự phát xoay quanh giá trị hàng hoá và biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.
- Tác dụng của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới sự tác động của quy luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy, lời cao thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành đó vượt quá cầu, giá cả hàng hoá giảm xuống, hàng hoá bán không chạy và có thể lỗ vốn. Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao. Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định. Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những chỉ từ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, sẽ thu được nhiều lời và càng thấp hơn càng lời. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hoá cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm… nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất. Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành người giàu, người nghèo. Những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lời, giàu hơn, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động và trở thành ông chủ. Ngược lại, những người sản xuất hàng hoá nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao đông xã hội cần thiết, khi bán hàng hoá sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
- Ý nghĩa nghiên cứu trong nền sản xuất hàng hóa
Quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tối tích cực phát triển. Tuy nhiên, quy luật này làm cho xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo tạo ra sự bất bình bình đẳng trong xã hội.
- Điều kiện để sức lao động là hàng hóa
- Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích. Nó là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất, sức lao động không phải lúc nào nó cũng là hàng hóa, nhưng muốn trở thành hàng hóa thì gồm 2 điều kiện sau:
✓ Người lao động được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
✓ Người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để đứng ra tổ chức sản xuất, nếu muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
- Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
- Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động có hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ. Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đó đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lí, khí hậu. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động - Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ở quy trình tiêu dùng (sử dụng) sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hoá, một dịch vụ nào đó. Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động. Hàng hoá sức lao động là điều kiện chuyển hoá tiền thành tư bản. Tuy nhiên nó không phải là cái quyết định để có hay không có bóc lột, việc quyết định còn ở chỗ giá trị thặng dư được phân phối như thế nào. - Sức lao động chính là chìa khóa giải quyết mâu thuẫn chung tư bản bởi vì mục đích của các nhà tư bản là muốn giá trị mới được sáng tạo ra phải lớn hơn giá trị sức lao động và thực tế việc nhà tư bản tiêu dùng sức lao động, phần lớn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Chính đặc tính này làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.