Hình thức, nguồn của pháp luật Flashcards
(24 cards)
hình thức bên trong của pháp luật
Hình thức bên trong của pháp luật là cơ cấu bên trong của nó, là mối liên hệ, sự liên kết giữa các yếu tố cấu thành pháp luật. Pháp luật là hệ thống quy tắc ứng xử của con người trong đời sống hàng ngày được hình thành thông qua nhà nước, do vậy hình thức bên trong của pháp luật chính là mối liên hệ, sự liên kết giữa các quy tắc xử sự đó.
Hình thức bên ngoài của pháp luật
Hình thức bên ngoài của pháp luật là dáng vẻ bề ngoài, là dạng (phương thức) tồn tại của nó. Dựa vào hình thức của pháp luật, người ta có thể thấy pháp luật tồn tại trong thực tế dưới dạng nào, nằm ở đâu. Thực tiễn lịch sử cho thấy, pháp luật chủ yếu được thể hiện dưới những hình thức là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
Nguồn của pháp luật
- Nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lý để các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Nói cách khác, nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lý cho hoạt động của cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyển cũng như các chủ thể khác trong xã hội.
+ Nhìn chung, trên thế giới, nguồn của pháp luật khá phong phú, bao gồm nhiều loại như văn bản quy phạm pháp luật; tập quán pháp; tiền lệ pháp; đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền; các quan điểm, tư tưởng, học thuyết pháp lý; điều ước quốc tế; các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội; lệ làng, hương ước của các cộng đồng dân cư; tín điều tôn giáo; các hợp đồng dân sự, thương mại…
+ Trong đó, văn bản quy phạm pháp luật, tập quán pháp, tiền lệ pháp là những loại nguồn cơ bản, các loại nguồn khác được coi là những nguồn không cơ bản, nó có giá trị bổ sung, thay thế khi trong các loại nguồn cơ bản không quy định hoặc có những hạn chế, khiếm khuyết…
+ Trong điều kiện hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, điều ước quốc tế được coi là nguồn cơ bản của pháp luật.
Mối liên hệ nguồn của pháp luật với hình thức bên ngoài của pháp luật
- Sự phân tích trên đây cho thấy, giữa nguồn của pháp luật và hình thức bên ngoài của pháp luật có liên quan với nhau. Một số quan điểm cho rằng, nguồn của pháp luật được hiểu đồng nhất với hình thức bên ngoài của pháp luật. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, nguồn của pháp luật có phạm vi rộng hơn hình thức bên ngoài của pháp luật. Theo quan điểm này, tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật vừa là nguồn, vừa là hình thức bên ngoài của pháp luật, còn những quan niệm đạo đức xã hội, tư tưởng, học thuyết pháp lý, hợp đồng… chỉ là nguồn của pháp luật.
Tập quán pháp
Tập quán pháp là những tập quán của cộng đồng được nhà nước thừa nhận, nâng lên thành pháp luật.
Tiền lệ pháp
Tiền lệ pháp là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể, được nhà nước thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác tương tự.
VBQPPL
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thù tục, hình thức do pháp luật quy định, trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Đặc điểm của tập quán pháp
- Tập quán pháp vừa là một loại nguồn, đồng thời cũng là một hình thức thể hiện, một dạng tồn tại của pháp luật trên thực tế. Ở hình thức này, pháp luật tồn tại dưới dạng thói quen ứng xử của cộng đồng.
- Nhà nước thừa nhận một tập quán thành tập quán pháp nghĩa là nhà nước đưa quyền lực nhà nước vào trong tập quán đó. Chính vì vậy, khi một tập quán được thừa nhận là tập quán pháp nó sẽ trở nên có ý nghĩa bắt buộc và mang tính cưỡng chế.
- Việc nhà nước thừa nhận một tập quán thành tập quán pháp có ý nghĩa đối với cả nhà nước và xã hội.
+ Đối với nhà nước, tập quán pháp đóng vai trò quan trọng tạo nên hệ thống pháp luật của một quốc gia. Nhà nước thừa nhận một tập quán nào đó, biến chúng thành tập quán pháp nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý của nhà nước, trong khi chưa có nhu cầu hoặc chưa có điều kiện xây dựng pháp luật thành văn.
+ Đối với xã hội, tập quán pháp thể hiện sự chấp nhận của nhà nước đối với một thói quen ứng xử của cộng đồng, đó chính là sự thống nhất giữa ý chí nhà nước với ý chí cộng đồng - Khi thừa nhận một tập quán là tập quán pháp, nhà nước có các biện pháp kinh tế xã hội nhằm khuyến khích xử sự theo tập quán đó, nhờ đó, tập quán được giữ gìn và phát huy.
- Tập quán pháp có thể được tạo ra từ hoạt động của cơ quan lập pháp, cũng có thể được tạo ra từ hoạt động của các cơ quan tư pháp khi áp dụng tập quán để giải quyết một vụ việc cụ thể.
Đặc điểm của tiền lệ pháp
- Tiền lệ pháp cũng vừa là nguồn, vừa là hình thức của pháp luật.
- Với hình thức tiền lệ pháp, pháp luật tồn tại trong căc bản án, quyết định hành chính, tư pháp. Những bản án, quyết định này vốn được các chủ thể có thẩm quyền ban hành để giải quyết những vụ việc cụ thể, đối với những cá nhân, tổ chức cá biệt, xác định danh tính. Tuy nhiên, những lập luận, nhận định, phán quyết được chứa đựng trong những văn bản đó rất điển hình, mẫu mực, giải quyết vụ việc một cách khách quan, công bằng, “thấu tình, đạt lý”, chính vì vậy chúng được cơ quan có thẩm quyền thừa nhận, phát triển thành khuôn mẫu chung để giải quyết các vụ việc khác có tính chất tương tự.
- Trong xã hội hiện đại, nhìn chung các quốc gia trên thế giới thường chỉ thừa nhận tiền lệ pháp do toà án tạo ra, vì vậy ngày nay tiền lệ pháp còn được gọi là án lệ. Trên thực tế có hai loại án lệ:
+ Một là án lệ tạo ra quy phạm pháp luật, nguyên tắc pháp luật mới, đây là loại án lệ cơ bản, án lệ gắn với chức năng sáng tạo pháp luật của toà án;
+ Hai là án lệ hình thành bởi quá trình toà án giải thích các quy định trong pháp luật thành văn. Loại án lệ thứ hai là sản phẩm của quá trình toà án áp dụng và giải thích những quy định do cơ quan lập pháp ban hành. Đó là sự giải thích những quy định mang tính nguyên tắc chung, quy định có tính nước đôi, hàm ý rộng, không rõ nghĩa, mập mờ hay có sự xung đột với quy định khác. - Các bản án, quyết định được thừa nhận là án lệ sẽ được viện dẫn làm căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ việc có tính chất tương tự.
Đặc điểm của VBQPPL
- Văn bản quy phạm pháp luật vừa là nguồn, vừa là hình thức pháp luật quan trọng bậc nhất. Đây là hình thức pháp luật thành văn, thể hiện rõ nét nhất tính xác định về hình thức của pháp luật.
- Văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy tắc xử sự chung, đó là những khuôn mẫu ứng xử cho một loại (một nhóm) đối tượng chung nhất định, trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định.
- Pháp luật của các nhà nước hiện đại đều quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành đối với từng loại văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.
- Ở mỗi nước, trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, dựa trên truyền thống pháp luật của đất nước, có những quy định riêng về tên gọi, hiệu lực, thẩm quyền và trình tự thủ tục ban hành đối với từng loại văn bản quy phạm pháp luật. Trong nhà nước chủ nô, phong kiến, chỉ nhà vua mới có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với các tên gọi như bộ luật, chiếu, chỉ, sắc, dụ… Sau khi nhà nước tư sàn ra đời, hiến pháp trở thành đạo luật cơ bản của đất nước, nền tảng pháp lý của toàn bộ đời sống xã hội, là luật gốc, xương sống của hệ thống pháp luật. Ngày nay, nhìn chung, trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đều bao gồm khá nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể khác nhau có thẩm quyền ban hành, với hiệu lực pháp lý cao, thấp khác nhau, trong đó, văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành được gọi là văn bản luật, các văn bản quy phạm pháp luật khác được gọi là văn bản dưới luật. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, sau đó là văn bản luật, tiếp đến là các văn bản quy phạm pháp luật của nguyên thủ quốc gia, các văn bản quy phạm pháp luật do chính phủ, thủ tướng chính phủ, cuối cùng là các văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành.
Ưu điểm của tập quán pháp
- Tập quán pháp xuất phát từ những thói quen, những quy tắc ứng xử từ lâu đời nên đã ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân và được nhân dân tự giác tuân thủ, góp phần tạo nên pháp luật và nâng cao hiệu quả của pháp luật.
- Góp phần khắc phục tình trạng thiếu pháp luật, khắc phục các lỗ hổng của pháp luật thành văn.
Hạn chế của tập quán pháp
- Tập quán pháp tồn tại dưới dạng bất thành văn nên thường được hiểu một cách ước lệ, có tính tản mạn, địa phương, khó bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trong phạm vi rộng.
- Tập quán pháp là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất, là hình thức pháp luật cơ bản, chủ yếu của kiểu pháp luật chủ nô, phong kiến. Hiện nay phạm vi ảnh hưởng của tập quán pháp đang bị thu hẹp dần.
Ưu điểm của án lệ
- Án lệ được hình thành từ hoạt động thực tiễn của các chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể trên cơ sở khách quan, công bằng, tôn trọng lẽ phải…nên nó dễ dàng được xã hội chấp nhận.
- Án lệ có tính linh hoạt, hợp lí, phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
- Án lệ góp phần khắc phục những lỗ hổng, những thiếu sót của văn bản quy phạm pháp luật.
Hạn chế của án lệ
- Án lệ được hình thành trong quá trình áp dụng pháp luật, là sản phẩm, kết quả của hoạt động áp dụng pháp luật nên tính khoa học không cao bằng văn bản quy phạm pháp luật.
- Thủ tục áp dụng án lệ phức tạp, đòi hỏi người áp dụng phải thực sự hiểu biết pháp luật một cách sâu, rộng.
- Thừa nhận án lệ có thể dẫn đến tình trạng toà án tiếm quyền của nghị viện và chính phủ.
Ưu điểm của VBQPPL
- Văn bản quy phạm pháp luật được hình thành do kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật, thường thể hiện trí tuệ của một tập thể và tính khoa học tương đối cao.
- Các quy định của nó được thể hiện thành văn nên rõ ràng, cụ thể, dễ đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, dễ phổ biến, dễ áp dụng, có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trên phạm vi rộng.
- Nó có thể đáp ứng được kịp thời những yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống vì dễ sửa đổi, bổ sung…
Hạn chế của VBQPPL
- Các quy định của văn bản quy phạm pháp luật thường mang tính khái quát nên khó dự kiến được các tình huống, trường hợp xảy ra trong thực tế, vì thế có thể dẫn đến tình trạng thiếu pháp luật hay tạo ra những lỗ hổng, những khoảng trống trong pháp luật.
- Những quy định trong văn bản quy phạm pháp luật thường có tính ổn định tương đối cao, chặt chẽ nên đôi khi có thể dẫn đến sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt.
- Quy trình xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thường lâu dài và tốn kém hơn sự hình thành của tập quán pháp và án lệ.
Nguồn của PLVN
- VBQPPL
- Tập quán pháp
- Án lệ
- Điều ước quốc tế
- Quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội
- Hợp đồng
- PL nước ngoài
Văn bản quy phạm pháp luật
+ Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật Việt Nam hiện nay.
+ Pháp luật nước ta có quy định cụ thể về thẩm quyền ban hành, tên gọi, nội dung, trình tự thủ tục ban hành đối với từng loại văn bản quy phạm pháp luật. Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, tên gọi, trình tự, thủ tục cũng như thẩm quyền ban hành đối với từng loại văn bản có thể có sự thay đổi. Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam tương đối phức tạp, với khá nhiều loại văn bản, do khá nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành. Ngoài Hiến pháp là luật cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam thường có tên gọi là luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư…
+ Các loại văn bản quy phạm pháp luật trên chia thành hai loại là văn bản luật và văn bản dưới luật. Có thể quan niệm rằng, văn bản luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành, các văn bản quy phạm pháp luật khác là văn bản dưới luật. Ngoài Hiến pháp được quy định chính thức là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, các văn bản quy phạm pháp luật khác không được quy định chính thức thứ tự cao thấp về hiệu lực, tuy nhiên có thể hiểu rằng, bằng việc quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền ban hành chúng, nhà nước đã đồng thời xác định thứ tự cao thấp về hiệu lực của từng loại văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn.
+ Trong trường hợp các vân bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
+ Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.
+ Trong lĩnh vực dân sự, Bộ luật dân sự là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trường hợp luật khác có liên quan quy định trái với những những nguyên tắc chung của pháp luật dân sự thì các quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng.
Tập quán pháp
+ Việt Nam đã chính thức thừa nhận tập quán pháp là một loại nguồn của pháp luật từ năm 1995 khi nhà nước ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên. Từ đó đến nay, tập quán pháp càng được coi trọng sử dụng, trình tự, thủ tục, cách thức áp dụng tập quán pháp cũng ngày càng hoàn thiện.
+ Ở Việt Nam hiện nay, có hai con đường dẫn đến sự tồn tại của tập quán pháp.
Một là, những tập quán được dẫn chiếu trong các điều, khoản của văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các văn bản trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại… Chẳng hạn, Bộ luật dân sự năm 2015 có các quy định dẫn chiếu tập quán trong một số trường hợp như: xác định một số quyền nhân thân cho cá nhân (quyền có họ tên, quyền xác định dân tộc); giải thích giao dịch dân sự; xác định ranh giới giữa các bất động sản; vấn đề sở hữu chung của cộng đồng; xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc; giao dịch hụi, họ, biêu, phường; nghĩa vụ của bên thuê tài sản; bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra; các nghĩa vụ về tài sản và các khoản thanh toán liên quan đến thừa kế; việc áp dụng tập quán quốc tế…
Hai là, những tập quán được áp dụng để giải quyết những vụ việc cụ thể. Trường hợp này pháp luật chỉ đưa ra nguyên tắc để áp dụng tập quán, khi một tập quán được áp dụng nó sẽ trở thành tập quán pháp. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015, trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thoả thuận thì áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với những nguyên tắc cơ bản và không vi phạm điều cấm đã được quy định trong các văn bản đó.
Án lệ
+ Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Toà án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử, Thực hiện nhiệm vụ này, Toà án nhân dân tối cao từng bước xuất bản các tập án lệ.
+ Án lệ ở Việt Nam được hình thành trước hết trong quá trình toà án giải thích và áp dụng các quy định trong pháp luật thành văn, nhằm làm tăng tính thuyết phục trong các phán quyết của toà án.
+ Mặc dù pháp luật không quy định một cách chính thức, tuy nhiên, theo lời văn của quy định trong pháp luật hiện hành, có thể hiểu trong lĩnh vực dân sự, thứ tự ưu tiên áp dụng của án lệ là: điều khoản quy định trực tiếp về vụ việc, thoả thuận của các bên, tập quán, quy định điều chỉnh vụ việc tương tự, các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, án lệ.
Điều ước quốc tế
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, điều ước quốc tế là một loại nguồn pháp luật quan trọng. Nó có thể được nội luật hóa thành các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật nước ta, cũng có thể nó được áp dụng một cách trực tiếp. Pháp luật Việt Nam có các quy định cụ thể về áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế. Theo đó, nếu về cùng một vấn đề mà giữa pháp luật trong nước và điều ước quốc tế có quy định khác nhau thì thứ tự ưu tiên áp dụng lần lượt là Hiến pháp, điều ước quốc tế, các văn bản luật, các văn bản dưới luật.
Quan niệm, quan điểm đạo đức xã hội
Các quan niệm đạo đức xã hội nhiều trường hợp được pháp luật dẫn chiếu làm căn cứ pháp lý để các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Trong nhiều trường hợp, pháp luật quy định, các chủ thể thực hiện hành vi không được trái với những quan niệm đạo đức xã hội. Phẩm chất đạo đức cá nhân (được hình thành do tu dưỡng, rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức xã hội) luôn là một trong những tiêu chí cơ bản trong tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức nhà nước… Nhiều quan niệm, chuẩn mực đạo đức còn được dẫn chiếu cụ thể như trung thành, tận tụy, thiện chí, trung thực, công bằng… Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định, trong trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thoả thuận, đồng thời cũng không có tập quán hay quy định điều chỉnh vụ việc tương tự thì có thể áp dụng những quan niệm về lẽ công bằng trong xã hội.
Hợp đồng
Pháp luật tôn trọng thoả thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự, thương mại…, tất nhiên nội dung thoả thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật cũng như không trái đạo đức xã hội. Khi đó, thoả thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là căn cứ pháp lý để các bên thực hiện hành vi của mình, đồng thời đó cũng là căn cứ quan trọng để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nếu có. Thậm chí, trong lĩnh vực dân sự, trong nhiều quy định của pháp luật hiện hành, thoả thuận của các bên được nhà làm luật đề cập trước, sau đó mới đến sự quy định của pháp luật, tập quán…
Pháp luật nước ngoài
Trong điều kiện hiện nay, pháp luật nước ngoài được coi là một nguồn của pháp luật Việt Nam. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài phải tụân theo những điều kiện cũng như thủ tục, trình tự do pháp luật quy định.