Trách nhiệm pháp lí Flashcards
(23 cards)
Trách nhiệm pháp lí
- Trách nhiệm pháp lí là sự bắt buộc phải gánh chịu hậu quả pháp lí bất lợi do vi phạm pháp luật.
Đặc điểm
- Trách nhiệm pháp lí luôn gắn liền vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm pháp lí thể hiện thái độ phản ứng của nhà nước và xã hội đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm pháp lí luôn mang tính bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu.
- Trách nhiệm pháp lí là một loại nghĩa vụ pháp lí đặc biệt, phát sinh khi có vi phạm pháp luật.
- Trách nhiệm pháp lí được nhà nước bảo đảm thực hiện.
- Trách nhiệm pháp lí luôn gắn liền vi phạm pháp luật.
Những hành vi tuy có thể gây ra những thiệt hại nhất định cho xã hội nhưng nếu không bị coi là vi phạm, chẳng hạn như hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết, phong vệ chính đáng không làm phát sịnh trách nhiệm pháp lí.
- Trách nhiệm pháp lí thể hiện thái độ phản ứng của nhà nước và xã hội đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
Nhà nước với tư cách là người duy trì và bảo vệ trật tự xã hội phải có biện pháp để lên án, trừng trị và ngăn chặn những chủ thể đã có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội.
- Trách nhiệm pháp lí luôn mang tính bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu.
Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lí sẽ phải gánh chịu những thiệt hại nhất định về quyền, tự do, tài sản, tinh thần, sức khoẻ, thậm chí là tính mạng của họ.
- Trách nhiệm pháp lí là một loại nghĩa vụ pháp lí đặc biệt, phát sinh khi có vi phạm pháp luật.
Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lí bắt buộc phải thực hiện những xử sự nhất định trước một chủ thể khác, có thể là nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm.
- Trách nhiệm pháp lí được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Nhà nước bằng quyền lực của mình, bắt buộc chủ thể phải thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh trách nhiệm pháp lí của mình.
Phân loại
- Trách nhiệm hình sự: loại trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do toà án áp dụng với các chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội. Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự có thể phải chịu các biện pháp chế tài pháp luật như cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình…
- Trách nhiệm hành chính: áp dụng với các chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Chủ thể chịu trách nhiệm hành chính có thể phải chịu các biện pháp chế tài pháp luật như cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề…
- Trách nhiệm dân sự: áp dụng với các chủ thể có hành vi vi phạm dân sự. Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự có thể phải chịu các biện pháp chế tài pháp luật như buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai; phạt vi phạm…
- Trách nhiệm kỉ luật nhà nước: áp dụng với các chủ thể có hành vi vi phạm kỉ luật nhà nước. Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự có thể phải chịu các biện pháp chế tài pháp luật như cảnh cáo, hạ bậc lương, cách chức, buộc thôi việc…
Truy cứu trách nhiệm pháp lí
- Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước do cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thểm quyền tiến hành nhằm cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.
Mục đích truy cứu trách nhiệm pháp lí
+ Nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền của cá nhâ, tổ chức trong xã hội, đảm bảo cho các quan hệ xã hội diễn ra trong ổn định, trật tự và phát triển một cách bình thường.
+ Nhằm xử lí người vi phạm pháp luật, trừng phạt họ, qua đó nhằm cải tạo, giáo dục họ, ngăn chặn sự tiếp tục vi phạm pháp luật của họ.
+ Nhằm răn đe, phòng ngừa chung, làm cho các chủ thể khác nhận thức được tính nghiêm minh của luật pháp mà không dá vi phạm pháp luật.
+ Nhằm khôi phục trạng thái ban đầu của quan hệ xã hội trước khi bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại.
- Các yêu cầu của truy cứu trách nhiệm pháp lí:
+ Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí. Nghĩa là, hoạt đông truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành đúng thẩm quyền, theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định, có căn cứ pháp lí vững chắc, đúng người, đúng vi phạm, đúng pháp luật, tránh oan sai nhưng không bỏ lọt vi phạm.
+ Bảo đảm tính hợp lí trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí. Nghĩa là, quyết định áp dụng pháp luật được ban hành khi truy cứu trách nhiệm pháp lí phải phù hợp với các điều kiện hiện thực để có thể thi hành được, đồng thời phải đảm bảo tính có lợi nhất về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
+ Việc truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành trên cơ sở bảo đảm, bảo vệ các quyền, các giá trị con người. Không áp dụng các biện pháp cưỡng chế làm nhục con người. Nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm và vi phạm pháp luật có tính chất chuyên nghiệp. Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, ăn năn hối cải, lập công, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
+ Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành kịp thời, nhanh chóng, nhằm đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm pháp lí được thuận lợi, ngăn chặn kịp thời các vi phạm pháp luật tương tự có thể xảy ra cũng như ngăn ngừa hiện tượng tiêu cực trong quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lí.
+ Bảo đảm nguyên tắc công bằng trong truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Đặc điểm truy cứ TNPL
- Là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước
- Là việc cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật
- Là hoạt động có trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ do pháp luật quy định
- Là hoạt động đòi hỏi phải sáng tạo
Là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước
- Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí do các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc chủ thể được pháp luật trao quyền tiến hành.
- Truy cứu trách nhiệm pháp lí là áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
- Hoạt động này là tiếp tục thể hiện ý chí nhà nước, thông qua hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí, ý chí nhà nước được thể hiện thành biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
- Nội dung các quyết định được ban hành trong quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lí luôn thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể truy cứu trách nhiệm pháp lí trên cơ sở nhận thức và niềm tin nội tâm của họ về bản chất của vụ việc và các quy định của pháp luật. Các quyết định này có ý nghĩa bắt buộc đối với các chủ thể vi phạm pháp luật và các chủ thể khác có liên quan.
Là việc cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật
- Khi có vi phạm pháp luật, nhà nước thông qua các chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật nhằm cá biệt hoá bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật thành trách nhiệm pháp lí cụ thể đối với chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Về nội dung, truy cứu trách nhiệm pháp lí là sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước; về hình thức, đó là việc tổ chức cho chủ thể vi phạm pháp luật thực hiện bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật.
Là hoạt động có trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ do pháp luật quy định
Truy cứu trách nhiệm pháp lí thực chất là áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đưa đến những hậu quả bất lợi cho chủ thể vi phạm pháp luật. Vì vậy, để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí, hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm có thể xảy ra, tránh hiện tượng oan sai, bỏ lọt vi phạm đòi hỏi cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền phải tiến hành hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí một cách hết sức thận trọng, đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định.
Là hoạt động đòi hỏi phải sáng tạo
Các vụ việc pháp luật xảy ra rất đa dạng và phức tạp, trong khi đó pháp luật chỉ dự liệu những tình huống có tính chất phổ biển, điển hình mà không mô tả tỉ mỉ từng tình tiết của sự việc. Do vậy, khi truy cứu trách nhiệm pháp lí, các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền phải thu thập và xử lí thông tin một cách đầy đủ, chính xác, xem xét một cách toàn diện và kĩ lưỡng nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng sao cho đúng người, đúng tính chất, mức độ vi phạm.
Căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lí
- Căn cứ truy cứu trách nhiệm pháp lí: là tổng thể các quy định của pháp luật được các chủ thể tiến hành sử dụng làm căn cứ cho tất cả cá hoạt động trong quá trình truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Căn cứ truy cứu TNPL
- Căn cứ pháp lí
- Căn cứ thực tế: vi phạm pháp luật đã xảy ra trên thực tế được xác định qua các yếu tố cấu thành của vi phạm đó
Căn cứ pháp lí
- Các quy định của pháp luật hiện hành xác định thẩm quyề, trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí Pháp luật về tố tụng/ pháp luật về thủ tục
- Các quy định của pháp luật hiện hành xác định hành vi bị coi là vi phạm pháp luật và biện pháp cưỡng chế dự kiến áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi đó, những tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm pháp lí, điều kiện áp dụng một số biện pháp cưỡng chế nhất định…
- Các quy định của pháp luật hiện hành về thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí là một khoảng thời gian nhất định, do pháp luật quy định mà chỉ trong thời hạn đó, chủ thể vi phạm pháp luật mới có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lí, nếu hết thời hạn đó mà hoạt động truy cứu chưa được tiến hành thì không được truy cứu nữa.
Căn cứ vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Căn cứ vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vi phạm pháp luật:
- Hành vi trái pháp luật là căn cứ đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lí. Nếu không thể xác định được hành vi trái pháp luật thì không thể tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí.
- Thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, tính chất, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi cũng là căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí.
- Mức độ thiệt hại có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định loại trách nhiệm pháp lí cần truy cứu cũng như xác định biện pháp cưỡng chế một cách tương xứng.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại cho xã hội là một căn cứ quan trọng để truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Căn cứ vào chủ thể của vi phạm pháp luật
Căn cứ vào chủ thể của vi phạm pháp luật:
- Đối với chủ thể là cá nhân:
+ Khi tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí, cơ quan hay nhà chức trách có thẩm quyền phải căn cứ vào độ tuổi của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật. Nếu đến thời điểm thực hiện hành vi trái pháp luật, cá nhân chưa đủ tuổi do pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm pháp lí thì không được tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với họ. Độ tuổi cũng là căn cứ quan trọng để cơ quan có thẩm quyền lựa chọn biện pháp cưỡng chế nhà nước một cách phù hợp.
+ Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể cũng là một căn cứ để tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí. Nếu ở thời điểm thực hiện hành vi trái pháp luật, không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì không được tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với họ. Nếu ở thời điểm truy cứu trách nhiệm pháp lí, cá nhân mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với họ có thể phải tạm dừng hoặc huỷ bỏ.
- Đối với tổ chức: địa vị pháp lí của tổ chức là căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí. Không truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với một tôt chức mà sự tồn tại của nó là bất hợp pháp. Trong trường hợp này, việc truy cứu trách nhiệm pháp lí được tiến hành với từng cá nhân tham gia tổ chức bất hợp pháp đó.
Căn cứ vào mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Căn cứ vào mặt chủ quan của vi phạm pháp luật:
- Chỉ những trường hợp khi thực hiện hành vi, chủ thể có lỗi mới có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lí.
- Hình thức lỗi cụ thể là căn cứ để xác định biện pháp cưỡng chế nhà nước một cách phù hợp.
- Trong nhiều trường hợp, mục đích, động cơ cũng là căn cứ để quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
Căn cứ vào khách thể của vi phạm pháp luật
Hành vi dù gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội nhưng các quan hệ đó không được pháp luật bảo vệ thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lí.