Nguồn gốc, kiểu nhà nước Flashcards
(14 cards)
Nhà nước
- Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lí xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội.
Đặc trưng của nhà nước
- Nhà nước có quyền lực đặc biệt (Quyền lực nhà nước)
- Nhà nước thực hiện việc quản lí dân cư theo lãnh thổ
- Nhà nước thực thi chủ quyền quốc gia
- Nhà nước ban hành pháp luật và dùng pháp luật làm công cụ quản lí xã hội
- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế, phát hành tiền
Nhà nước có quyền lực đặc biệt (quyền lực nhà nước)
+ Quyền lực nhà nước là khả năng của nhà nước nhờ đó các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải phục tùng ý chí nhà nước. “Khả năng” của nhà nước phụ thuộc vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh vật chất, uy tín của nhà nước trong xã hội hay khả năng vận động quần chúng của nó…
+ Quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với các cá nhâ, tổ chức trong xã hội. Trong mối quan hệ này nhà nước là chủ thể của quyền lực, các cá nhân, tổ cức trong xã hội là đối tượng của quyền lực ấy, họ phải phục tùng ý chí của nhà nước.
+ Quyền lực nhà nước còn tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với các thành viên cũng như các cơ quan của nó, trong đó thành viên phải phục tùng tổ chức, cấp dưới phải phục tùng cấp trên.
+ Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội quyền lực nhà nước là quyền lực đặc biệt, bao trùm đời sống xã hội, chi phối mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Để thực hiện quyền lực nhà nước, có một lớp người tách ra khỏi hoạt động sản xuất trực tiếp, tổ chức thành các cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan chuyên đảm nhận những công việc nhất định, hợp thành bộ máy nhà nước từ trung ương xuống địa phương.
Nhà nước thực hiện việc quản lí dân cư theo lãnh thổ
Người dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới tính…cứ sống trên một địa vực nhất định thì chịu sự quản lí của một nhà nước nhất định và do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ trước nhà nước theo nơi mà họ cư trú.
Nhà nước thực thi chủ quyền quốc gia
+ Nhà nước có quyền lực bao trùm phạm vi lãnh thổ quốc gia, đứng trên mọi cá nhâ, tổ chức trong xã hội nhà nước là tổ chức duy nhất có đủ tư cách và khả năng đại diện chính thức và hợp pháp của quốc gia, thay mặt quốc gia, dân tộc thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
+ Chủ quyền quốc gia: mang nội dung chính trị pháp lí, nó thể hiện quyền quyết định tối cao và độc lập, tự quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào bất cứ cá nhân, tổ chức nào trong nước cũng như các nhà nước khác, các tổ chức quốc tế.
+ Trong xã hội không có dân chủ, chủ quyền quốc gia thuộc về nhà nước. Trong điều kiện của xã hội dân chủ, quyền lực tối cao trong xã hội thuộc về nhân dân, nhận dân uỷ quyền cho nhà nước tổ chức thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
- Nhà nước ban hành pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ quản lí xã hội
+ Nhà nước là tổ chức đại diện cho xã hội, thay mặt xã hội an hành pháp luật, cung ứng cho xã hội một loại quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội.
+ Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật, đồng thời, với tư cách là người có sứ mệnh tổ chức và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội, nhà nước phải sử dụng pháp luật, dựa vào pháp luật, là phương tiện đặc biệt quan trọng để tổ chức và quản lí xã hội.
+ Mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế, phát hành tiền
+ Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc hải nộp cho nhà nước theo quy định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên thực hiện chức năng quản lí xã hội, do vậy, nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn của cải do dân cư đóng góp. Thiếu thuế bộ máy nhà nước không thể tồn tại được. Bên cạnh đó, thuế là nguồn của cải quan trọng phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống.
+ Chỉ nhà nước mới có quyền quy định và thực hiện việc thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức cho toàn xã hội.
+ Nhà nước phát hành tiền làm phương tiện trao đổi trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng của cải trong đời sống.
Nguồn gốc nhà nước
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lenin: nhà nước là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, nó xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của đời sống xã hội khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu và phân chia thành các giai cấp đối kháng.
Quá trình hình thành nhà nước
+ Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là thời kì chưa có nhà nước. Con người sống thành từng bầy người nguyên thuỷ thị tộc bộ lạc liên minh các bộ lạc
Hình thành và duy trì bởi quan hệ huyết thống; duy trì chế độ sở hữu chung, lao động chung và phân phối bình quân quan hệ người với người bình đẳng, tự do, quyền lực công cộng thuộc về toàn thể thị tộc, bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng; cách tổ chức xã hội đơn giản nhưng đã xuất hiện nhu cầu quản lí, điều hành các hoạt động chung của thị tộc, bộ lạc tù trưởng, tộc trưởng, thủ lĩnh quân sự cùng chung sống, lao động, thụ hưởng như mọi thành viên khác, không có đặc quyền, đặc lợi.
+ Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất phát triển chậm chạm nhưng không ngừng, dó vậy xã hội đã trải qua ba lần phân công lao động xã hội lớn. Các lần phân công lao động đó đã dẫn đến nhiều hệ quả làm thay đổi xã hội:
* Nền kinh tế chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp và tự túc, săn bắn và hái lượm sang nền kinh tế sản xuất và trao đổi. Các ngành nghề khác nhau đã lần lượt xuất hiện và phát triển: chăn nuôi, trồng trọt, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Nền sản xuất hàng hoá đã ra đời và phát triển.
* Sở hữu tư nhân xuất hiện để thay thế cho sở hữu công cộng của thị tộc và ngày càng được củng cố.
* Sự phân hoá xã hội xuất hiện và ngày càng sâu sắc. Cụ thể
Thứ nhất, những người trong cùng thị tộc, bộ lạc được phân hoá thành những người làm các ngành nghề khác nhau, có nhu cầu và lợi ích khác nhau.
Thứ hai, công cụ sản xuất được cải tiến từ đồ đá thành đồ đồng, đồ sắt. Năng suất, hiệu quả lao động, nhu cầu và giá trị sức lao động ngày càng tăng, tù binh trong chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc được giữ lại để làm nô lệ đã xuất hiện và ngày càng đông. Xã hội có sự phân hoá thành người tự do và nô lệ.
Thứ ba, sự xuất hiện của sở hữu tư nhân đã dẫn đến sự phân hoá xã hội thành kẻ giàu và người nghèo. Cùng với sự xuất hiện của thương nhân, sở hữu tư nhân và hoàn toàn về ruộng đất thì đồng tiền, nạn cầm cố ruộng đất, cho vay nặng lãi xuất hiện làm cho sự phân hoá giàu nghèo, phân hoá thành người tự do và nô lệ càng thêm sâu sắc; của cải trong xã hội có sự tích tụ và tập trung vào tay một số ít người, dân nghèo và nô lệ tăng lên rất đông.
Gia đình riêng rẽ bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội. Sự liên minh và hợp nhất của các bộ lạc cùng thần tộc đã dẫn đến sự hợp nhất của các lãnh thổ riêng của các bộ lạc thành lãnh thổ chung của bộ tộc. Thủ lĩnh quân sự của bộ tộc trở thành một viên chức cần thiết, thường trực, đại hội đồng nhân dân được thành lập.
Chiến tranh xảy ra liên miên làm tăng thêm quyền lực của thủ lĩnh quân sự và tập quán lựa chọn người thừa kế của thủ lĩnh quân sự trong một gia đình được hình thành, làm cho quyền lực của thủ lĩnh quân sự dần dần trở thành một quyền lực tập thể, đó là cơ sở của vương quyền thế tập và quý tộc thế tập.
Tình trạng người trong cùng thị tộc, bộ lạc thống nhất với nhau về quyền lợi, cùng chung sống trên một lãnh thổ mà chỉ có mình họ cư trú không còn nữa. Trên cùng lãnh thổ đó đã có người của các thị tộc, bộ lạc khác nhau cùng chung sống, họ được phân chia thành người tự do và nô lệ, người giàu có đi bóc lột và người nghèo khó bị bóc lột, người có nhu cầu và lợi ích xung đột với nhau. Những người giàu có đã lợi dụng địa vị kinh tế của mình khống chế bộ máy quản lí của xã hội chủ yếu vì lợi ích của họ và trở thành lực lượng thống trị, những người nghèo và nô lệ trở thành người bị trị, mâu thuẫn và đấu tranh giữa hai lực lượng đó xuất hiện và ngày càng sâu sắc.
Trước thực trạng trên, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực, không có đủ khả năng điều hành và quản lí xã hội. Nhu cầu khách quan của sự quản lí xã hội có sự phân hoá, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp đòi hỏi phải có một tổ chức mới, có sức mạnh quản lí và cướng chế lớn hơn thị tộc, bộ lạc thì mới có khả năng điều hành và quản lí xã hội, làm dịu xung đột giai cấp trong xã hội hoặc giữu cho xung đột đó ở trong vòng trật tự nhất định để xã hội có thể tồn tại và phát triển. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện.
2 nguyên nhân chính làm cho tổ chức thị tộc, bộ lạc tan rã và nhà nước xuất hiện
- Nguyên nhân kinh tế: sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động xã hội và sự xuất hiện của nền kinh tế sản xuất – trao đổi, của sở hữu tư nhân.
- Nguyên nhân xã hội: Sự phân hoá con người trong xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, người tự do và nô lệ, thành các giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội có khả năng kinh tế và địa vị xã hội khác biệt nhau, mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Đồng thời có sự tích tụ của cải và tập trung quyền lực vào tay một nhóm người, một lực lượng xã hội nhất định.
- Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên của đời sống xã hội, khi tổ chức thị tộc, bộ lạc tỏ ra bất lực, không đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống. Sự tồn tại của nhà nước nhằm giải quyết những vấn đề chung của đời sống xã hội, giữ gìn ổn định trật tự xã hội, tổ chức đời sống chung, quản lý, điều hành các hoạt động chưng của cộng đồng…
Kiểu nhà nước
- Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm, đặc thù của một nhóm nhà nước này, qua đó phân biệt với nhóm nhà nước khác.
Sự thay thế kiểu nhà nước
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin: sự thay thế các kiểu nhà nước là quá trình lịch sử tự nhiên. Sự thay thế này có thể diễn ra một cách tuần tự, từ kiểu nhà nước thấp đến kiểu nhà nước cao hơn. Đối với mỗi nước cụ thể, do điều kiện lịch sử khách quan, có thể bỏ qua một hoặc một số kiểu nhà nước nhất định.
Nguyên nhân sự thay thế kiểu nhà nước
- Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế kiểu nhà nước là: mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong một phương thức sản xuất xã hội. Khi mâu thuẫn này được giải quyết thì phương thức sản xuất mới được thiết lập, cùng với nó có một kiểu kiến trúc thượng tầng mới và tương ứng là một kiểu nhà nước mới.
- Kiểu nhà nước sau luôn tiến bộ hơn kiểu nhà nước trước vì nó được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất phù hợp hơn với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao hơn, cơ sở xã hội của nhà nước rộng rãi hơn; xung đột giai cấp trong xã hội thường đỡ gay gắt hơn.
- Có nhiều con đường đưa đến sự thay thế các kiểu nhà nước: thông qua cách mạng xã hội dưới hình thức khởi nghĩa vũ trang, thông qua một cuộc cải cách xã hội một cách toàn diện và triệt để.